Kỷ niệm chuyến Du lịch Trung Quốc
Tuyến đường sắt cao tốc cũng gọi là Tuyến đường sắt vận chuyển hành khách , là một tuyến đường sắt cao tốc vận hành bởi China Railway High-speed (CRH), , ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là dịch vụ tàu hỏa có tốc độ cao nhất thế giới, sử dụng đường ray đôi CRH2C và CRH3C với tốc độ trung bình 313 km/giờ khi chạy thương mại.
Mỗi chuyến tàu gồm hai khúc 8 toa nối với nhau, tổng cộng có 18 toa. Công suất vận chuyển hành khách khoảng 1114 người (CRH3C×2) hay 1220 (CRH2C×2). Công nghệ đã được phát triển bởi China Railway High-speed hợp tác cùng hãng Siemens và Kawasaki. Tàu sử dụng cho tuyến cao tốc này hoàn toàn được chế tạo ở Trung Quốc. Kỷ lục tàu nhanh nhất thế giới trước khi có tuyến tàu này là TGV của Pháp, kỷ lục từ năm 1990. Tốc độ trung bình của đường sắt cao tốc năm 2009 là 243 km/giờ ở Nhật Bản, 232 km/giờ ở Đức và 277 km/giờ tại Pháp.
Bắc Kinh có một chương trình phát triển thiết lộ đầy tham vọng nhằm gia tăng hệ thống đường xe lửa trong nước từ 86,000 cây số hiện nay lên 120.000 cây số, trở thành quốc gia có hệ thống đường sắt rộng lớn nhất ngoài Hoa Kỳ.
Thời tiết ở Tô Châu mát mẽ và dể chịu hơn Bắc Kinh , xung quanh TP có hồ nước cây xanh nhiều hơn
Tô Châu thu hút khách du lịch bởi vô số các danh lam thắng cảnh như 168 cây cầu xây bằng đá và gỗ, núi Thiên Đình, Linh Nham, chùa Hàn Sơn, chùa Tây Viên và cả tơ lụa. Thành phố đặc biệt nổi tiếng với những “khu vườn cổ” (lâm viên). Xưa kia, chính do sự nở rộ của những lâm viên này, Tô Châu đã từng được gọi là “Hoa Viên chi thành”. Hiện thành Tô Châu còn giữ được 180 vườn hoa mang phong cách kiến trúc vườn cổ của các thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Các vườn hoa cổ Tô Châu lấy khuôn viên tư gia là chủ đạo, bắt đầu từ thời Xuân Thu (năm 514 trước Công Nguyên), hình thành thời Ngũ Đại và nở rộ thời nhà Tống.
Hàn Sơn Tự là ngôi chùa cổ nằm ở phía tây của trấn Phong Kiều, Tô Châu. Chùa được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ VI, trong niên hiệu Thiên Giám (502-519) thời vua Lương Vũ Đế nhà Lương với tên gọi ban đầu là Diệu Lợi Phổ Minh Tháp viện. Trong loạn Thái Bình Thiên Quốc chùa bị phá hủy và được xây lại năm 1905. Đến khoảng niên hiệu Trinh Quán (627-649) thời Đường Thái Tông, tên gọi Hàn Sơn mới được đặt, nhằm tưởng nhớ đến nhà sư trụ trì nơi đây. Sau những thăng trầm, Hàn Sơn tự đã được các triều từ Tống tới Thanh gìn giữ, tu bổ cho đến ngày nay.
Cơ sở Ấm Tử Sa tại đây không cho chụp hình quay film nên không có hình ảnh nhiều.
Ấm tử sa được ví như hồn của người thưởng trà. Đây không hẳn chỉ là một loại trà cụ dùng để thưởng trà mà ấm còn là một kiệt tác về nghệ thuật thực sự. Là một trong 4 quốc bảo của Trung Quốc, vì vậy người sành trà dùng ấm tử sa để thưởng trà dường như là một quy luật bất biến. Ấm được làm hoàn toàn thủ công rất tỉ mỉ do những nghệ nhân có kỹ thuật, tay nghề vô cùng điêu luyện. Với các đặc tính như: Khi rót trà, nghiêng ấm 90o mà không rơi nắp ấm, lưu giữ hương, giữ nhiệt rất tốt, chịu nhiệt cao có thể đun trực tiếp trên bếp. Ấm tử sa khi đã có tuổi thì ta pha trà mà không cần trà, lưu trà lâu ngày mà không hỏng...những đặc tính đó đã luôn làm mê hoặc giới trà nhân ngay từ lần đẩu thưởng thức.
Nghệ thuật ấm tử sa là một trong tứ quốc bảo của Trung Quốc, vì vậy người sành trà không thể không có bộ ấm tử sa Nghi Hưng để thưởng ngoạn. Loại trà cụ nổi tiếng này với những huyền thoại như pha trà không cần trà, lưu trà 5 ngày không hỏng… luôn luôn mê hoặc trà nhân.
Người ta không khẳng định được tử sa trà cụ ra đời khi nào song điều chắc chắn nó tồn tại từ rất lâu, song hành với đời sống của trà. Ấm uống trà chỉ ra đời từ thời Minh, bởi vậy ấm tử sa không thể có trước giai đoạn ấy, tuy nhiên từ thời Đường – Tống, trà nghệ đã rất thịnh hành và trà nhân đương thời dùng oản (bát) và trản (bát nông) để thưởng trà, đấu trà.
Truyền thuyết còn đến nay ở huyện Vô Tích – Hằng Châu đều cho rằng chính Phạm Lãi, người tình của nàng Tây Thi chính là người đã chế tạo ra những trà cụ tử sa đầu tiên từ 2000 năm trước. Công lao dạy dân làm trà cụ, nuôi cá, nuôi ngọc trai, canh tác nông nghiệp đã được người dân tôn ông làm “Thần tài – Chu công” ở Vô Tích và thờ cúng ông ngày 2 và 16 âm lịch hàng tháng.
Phim trường như là một bức tranh tổng thể miêu tả cuộc sống của các triều đại Trung Hoa. Được khởi công từ năm 1987, phim trường chia thành nhiều khu vực, như đời Hán có cung điện Ngô Vương, Hán đỉnh, Tào doanh, Thủy trại...Đời Đường có Ngự hoa viên, Thẩm Hương đình, hồ Thanh Hoa... Đời Tống có Hoàng cung, chùa Đại tướng quốc, thủy trại Lương Sơn Bạc...Ngoài ra còn có các công trình kiến trúc theo mẫu hai triều Minh, Thanh; Tứ hợp viện Bắc Kinh, phố cổ Thượng Hải...tất cả được dựng giống như thật trong phim trường. Để hỗ trợ việc quay các bộ phim Đường Minh Hoàng, Tam quốc diễn nghĩa và Thủy hử, vào các năm 1991, 1994 và 1996 CCTV tiếp tục bỏ thêm kinh phí xây dựng các khu: Đường thành, Tam quốc thành và Thủy hử thành.
Nơi đây được chọn làm bối cảnh để quay phần lớn các cảnh quay ngoại cảnh của rất nhiều bộ phim ăn khách. Chính lợi thế về cành quan cùng với các bức tường rêu phong cùng với các công trình liên tục được xây mới khiến cho phim trường lúc nào cũng có nhiều đoàn làm phim tới để quay và dựng phim.
Sau 4 năm thực hiện, Tam quốc diễn nghĩa đã phát sóng và được đông đảo công chúng Trung Quốc và các nước châu Á yêu thích. Phim trường "Tam quốc thành" sau khi hoàn thành "sứ mệnh" đã được khai thác phục vụ khách du lịch. Đến thăm phim trường, du khách sẽ được đưa lên một chiến thuyền để thưởng ngoạn quang cảnh hữu tình và thưởng thức những khúc nhạc cổ hay tích truyện xưa.
Thái Hồ cũng nổi tiếng với đá vôi và các loài cá. Đồng thời khi đến đây, các du khách cũng có dịp thưởng thức đặc sản “Thái Hồ tam bạch” trứ danh với 3 món tôm, cá trắng đầu nhỏ và cá bạc